Phòng Dân số, Sức khỏe và Môi trường

30/08/2024

I. NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN HẠN CỦA PHÒNG DÂN SỐ, SỨC KHỎE VÀ MÔI TRƯỜNG

 

a) Đề xuất, tổ chức và triển khai thực hiện các đề tài, dự án nghiên cứu về dân số, sức khỏe, môi trường và các vấn đề xã hội có liên quan; Xây dựng định hướng, kế hoach nghiên cứu dài hạn, 3 năm, hàng năm của Phòng.

b) Đề xuất và triển khai các hoạt động tư vấn khoa học cho các chính sách, chương trình, dự án về dân số, sức khỏe, môi trường và các vấn đề xã hội có liên quan.

c) Hợp tác nghiên cứu, trao đổi thông tin, kiến thức, kết quả nghiên cứu xã hội học về dân số, sức khỏe, môi trường với các tổ chức trong và ngoài nước theo quy định.

d) Kết hợp nghiên cứu với đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về xã hội học dân số, sức khỏe, môi trường và các vấn đề xã hội có liên quan.

đ) Quản lý lao động, tài sản theo quy định của Nhà nước, của Viện Hàn lâm và của Viện Xã hội học.

e) Thực hiện các nghiên cứu, nhiệm vụ khác theo sự phân công của Viện trưởng.

 

II. LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU DÂN SỐ VÀ MỘT SỐ THÀNH TỰU

Lĩnh vực nghiên cứu xã hội học về dân số được Viện quan tâm ngay từ đầu những năm 80. Tuy nhiên, xã hội học dân số thực sự được phát huy từ năm 1983 cùng với việc thành lập Viện Xã hội học và phòng chuyên môn nghiên cứu chủ đề này. Lần đầu tiên chuyên ngành xã hội học dân số được hình thành và phát triển ở Việt Nam, thu hút sự chú ý và quan tâm của các nhà lập chính sách, các cơ quan quản lý và giới khoa học.

Cùng với những bước tiến đầu tiên trong chương trình nghiên cứu cơ bản tại nông thôn đồng bằng Bắc bộ, từ giữa thập niên 80, Viện đã tiến hành các nghiên cứu khởi đầu về dân số tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, và Tây Nguyên.
Những kết quả và phát hiện bước đầu đã khẳng định vai trò không thể thiếu của xã hội học dân số như một chuyên ngành nghiên cứu cơ bản, nâng cao vị thế của Viện Xã hội học trên lĩnh vực dân số và kế hoạch hóa gia đình. Lần đầu tiên, Viện đã tham gia với tư cách là cơ quan phản biện cho việc hoạch định Chương trình Dân số - Kế hoạch hóa gia đình do Ủy ban Quốc gia Dân số - Kế hoạch hóa gia đình chủ trì. Các cán bộ của Viện đã tham gia xây dựng Chiến lược Truyền thông Dân số đầu tiên của Việt Nam, một chính sách cơ bản và nòng cốt cho việc triển khai chương trình dân số trong những năm 90. Nhận thấy tầm quan trọng của xã hội học dân số, đồng thời ghi nhận những đột phá thành công của Viện trên lĩnh vực này, Chính phủ và Quỹ dân số Liên hiệp quốc đã quyết định hỗ trợ cho Viện Dự án dân số VIE/88/P05 "Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học xã hội về dân số ở Việt Nam”. Dự án đã tạo điều kiện để phát triển một hướng đi đúng đắn trong lĩnh vực xã hội học dân số, kế hoạch hóa gia đình. Các khóa đào tạo, huấn luyện trong khuôn khổ dự án đã tập hợp và tạo điều kiện cho nhiều cán bộ nghiên cứu trong và ngoài Viện đến từ hai miền đất nước tiếp cận được những kiến thức cơ bản về xã hội học dân số.  Đây cũng là lần đầu tiên, thông qua sự hỗ trợ của dự án, Viện có thêm được cơ sở vật chất, nguồn lực phục vụ công tác nghiên cứu và đào tạo cơ bản, tạo tiền đề cho việc xây dựng và phát triển Viện vững mạnh những năm sau đó. 
Thời kỳ 10 1987-1996, Viện Xã hội học đã tập trung vào các hoạt động nghiên cứu, đào tạo với nội dung "Dân số, mức sinh và kế hoạch hóa gia đình trong thời kỳ Đổi mới đất nước". Đây là một chương trình nghiên cứu dài hạn do Ủy ban Quốc gia Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế cùng với các đoàn thể quần chúng liên kết thực hiện. Viện Xã hội học cũng đã tham gia vào các đề tài cơ bản do các cơ quan Chính phủ chủ trì. Bằng những nghiên cứu sâu có tính chất đột phá, Viện đã đưa ra những luận điểm cơ bản. Chẳng hạn, từ năm 1990, trong khi các cơ quan lập chính sách đang tìm hướng tiếp cận đối với công tác dân số, Viện đã đưa ra câu trả lời cụ thể và đúng đắn: để có thể giảm sinh một cách bền vững, không thể y-tế hóa chương trình dân số mà phải xã hội hóa công tác dân số. Những năm sau đó, khi nông nghiệp và nông thôn Việt Nam đang chuyển mình đi lên với những đổi mới kinh tế - xã hội, các phân tích về tác động chính sách của Viện đã dự báo chính xác rằng chính sách khoán trong nông nghiệp không làm gia tăng mức sinh và nhu cầu sinh đẻ của người nông dân. Thực tế đã khẳng định luận điểm này: Cùng với những cải thiện trong thu nhập và mức sống, tỷ lệ sinh ở khu vực nông thôn đã giảm nhanh và giảm bền vững trong thập niên qua. Song song với công tác nghiên cứu, thông qua các dự án do Quỹ dân số Liên hiệp quốc hỗ trợ, trong thời kỳ này Viện đã đẩy mạnh công tác đào tạo và giảng dạy về Xã hội học dân số cho các cán bộ trong và ngoài Viện. Những cuốn sách "Các phương pháp đánh giá chương trình kế hoạch hóa gia đình" (1996), "Dân số đồng bằng Bắc Bộ - những nghiên cứu từ góc độ xã hội học" (1996), "Tuyển tập các công trình chọn lọc trong dân số học xã hội" (1994) được Viện xuất bản đã trở thành nguồn tư liệu hữu ích phục vụ cho hoạt động nghiên cứu và giảng dạy về xã hội học dân số thời kỳ này.
Trong giai đoạn từ 1997 đến nay, Việt Nam đã bước sang giai đoạn quá độ dân số với sự giảm mạnh về mức sinh và mức chết. Cùng với quá trình đó, di chuyển dân số-lao động đã trở thành một thực tế khách quan, có tác động mạnh mẽ đến  đời sống và các quá trình kinh tế-xã hội của đất nước. Bám sát thực tế, Viện đã chủ động mở ra hướng nghiên cứu mới trên chủ đề "Di dân và phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" qua đó tiếp tục phát huy được thế mạnh và vai trò đi đầu trong việc  triển khai những công trình nghiên cứu về di  dân và phát triển.
Bên cạnh những đối tác truyền thống như Ủy ban Quốc gia Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ, các cơ quan bộ ngành trước đây, trong thời kỳ này Viện đã mở rộng các chương trình hợp tác nghiên cứu với các cơ quan trong nước (như Văn phòng Quốc hội, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Xây dựng, Tổng cục Thống kê,...). Đồng thời, Viện đã mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều trường đại học trên thế giới, với các tổ chức khoa học, các quỹ tài trợ để triển khai nhiều nghiên cứu xã hội học trên lĩnh vực di dân và di chuyển dân số-lao động trong bối cảnh Đổi mới. Viện đã có những phát hiện và kiến nghị quan trọng về vai trò của di dân trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, về chính sách di dân tự phát, về quản lý người nhập cư trong điều kiện kinh tế thị trường, về tác động của công tác xuất khẩu lao động và di dân quốc tế,...
Chẳng hạn, đó là các kết luận và kiến nghị như: Di động dân số là một cấu thành khách quan của quá trình phát triển; Di dân có đóng góp tích cực vào sự nghiệp xóa đói, giảm nghèo và phát triển nông thôn; Quản lý dân số và xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa không thể có hiệu quả nếu dựa trên cơ sở phân biệt tình trạng di dân và cư trú; Di dân nông thôn-thành thị không làm gia tăng tỷ lệ sinh và ảnh hưởng đến các mục tiêu dân số ở thành thị, xu hướng giảm sinh là bền vững; v.v...
Những quan điểm khoa học và khuyến nghị chính sách như vậy đã nhận được sự hưởng ứng, tham khảo và sử dụng rộng rãi của các bộ ngành hoạt động trong lĩnh vực này như Văn phòng Quốc hội, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Xây dựng, v.v...  Viện đã xuất bản một số cuốn sách chuyên đề như "Di dân ở Việt Nam: Tiếp cận lý thuyết và minh chứng từ một cuộc điều tra" (2001), "Di dân nội địa và đô thị hóa ở Việt Nam" (2002), giúp cho giới nghiên cứu trong và ngoài Viện tiếp tục nâng cao năng lực trên lĩnh vực này.  Những hội nghị, hội thảo quốc gia, khu vực hay toàn cầu đều có sự tham gia thường xuyên của những cán bộ xã hội học dân số, góp phần khẳng định vị thế và nâng cao vai trò của Viện trong lĩnh vực dân số trên bình diện trong nước và quốc tế.

 

III. ĐỘI NGŨ CÁN BỘ

1. TS. Nghiêm Thị Thủy, Trưởng phòng

2. ThS. Nguyễn Quang Tuấn 

3. ThS. Trần Việt Long

4. ThS. Nguyễn Thị Xuân

5. ThS Khuất Thị Diệu Linh

6. ThS. Nguyễn Thị Huyền Giang